Sunday, January 30, 2022

Saturday, January 29, 2022

 Bài hát Ngày Em Về của Thanh Trang 

và 
một “hc trò” cũ của tôi.

Qua FaceBook, tôi gặp được một học-sinh của miền đất hiền-hòa nhưng khá nỗi tiếng bên bờ Hậu Giang, thuộc Vĩnh-Long, nơi mà tôi thường nói thuộc về “Góc nhớ vùng bưỡi Năm Roi” của tôi.
Được biết em là bạn của một nhóm học-sinh thuộc một lớp học tại trường trung-học sở-tại mà tôi có dạy qua, nhưng em không học với tôi vì ngay năm tôi phụ-trách lớp thì em chuyển trường. Dù vậy, em vẫn gọi tôi là thầy. (Vì lẽ đó tôi viết “học-trò” giữa hai ngoặc kép. Cám ơn em và thầy vẫn xem em như bao nhiêu học-sinh thân-mến khác mà thầy hân-hạnh đã hướng-dẩn trong đời).
Từ một kỷ-niệm của tôi với một đồng-nghiệp thân-thiết về ca khúc Đường Chân Trời (Anh Việt Thu), câu chuyện trao đổi cùng em đã dẩn dắt tôi đến bài hát Ngày Em Về (Thanh Trang). Một điều bất-ngờ thú-vị là nhạc-sĩ Thanh Trang đã chọn em trình-bày bản Ngày Em Về; xin trích một đọan văn nói về bản nhạc này của nhạc-sĩ:

............
Bài hát “Ngày em về“ tôi viết đã vài ba năm nay nhưng vẫn còn phải chờ một giọng ca miền Nam nào đấy, giọng nữ, cho thật là hồn nhiên, dân dã, như cỏ cây ngoài trời ngoài đất vậy! Một giọng ca nữ thuộc diện “chuyên nghiệp” từ chốn thành thị mà hát bài này thì tôi độ chừng là hát qua thì dễ tạo nơi tôi cảm giác như khi đọc câu thơ Nguyễn Bính khi xưa:
“Hôm qua em đi Tỉnh về“
“Hương đồng cỏ nội bay đi rất nhiều”
(Tuy tôi chẳng mấy khoái hai chữ “bay đi” ở câu sau vì nó không đúng vận! Nguyễn Bính là dân Bắc Kỳ, gốc Hưng Yên, mà ngày đó sao chẳng chịu viết:
“Hôm qua em đi Tỉnh về
“Hương đồng cỏ nội dinh tê rất nhiều“?
Kim Tuyết là một cô gái miền Nam, quê ở Vĩnh Long. Cũng là nơi mà tôi chẳng mấy xa lạ vì Bà Ngoại và một ông Cậu của tôi, (gốc miền Trung nhưng đều đã qua đời), xưa kia sinh sống ở Trà Vinh (Vĩnh Bình), tức từ Sài Gòn xuống phải qua đất Vĩnh Long cái đã! Kim Tuyết sinh sống ở Vĩnh Long nhưng lại đọc đuợc những gì nơi trang “Cỏ Thơm” này qua Internet!
Một ngày mới đây cô ấy liên lạc bằng e-mail với tôi và viết về khá nhiều thiện cảm của cô đối với mục “Nhạc” nơi trang này! “Chuyện trò” qua lại dăm ba phen qua e-mail thì tôi mới hay là cô ấy rất thích ca hát để giải trí; nhưng điều khiến tôi đặc biệt chú ý là cô ấy nói biết ca Vọng Cổ! Ôi Giời! Nghe vậy thì tôi sực nhớ ngay đến bài hát “Ngày em về“ của mình!  
“Ngày em về“
“Ngày em nơi xa về thăm xóm quê”
“Lúa thơm trên đồng lúa (lên) ghe theo cùng về“
“Đầu thôn trăng cài trên khóm tre”
“Em đi bao nguời nhớ, em về thôn xóm vui !”
“Cây vuờn, màu lá xanh tươi”
“Chiều êm sóng vỗ bồi hồi bờ nuớc xa !”
“Trăng soi lên mái tranh nhà”
“Sông xưa bến cũ mặn mà tình quê em !”
Tất cả những gì nơi lời bài hát đều phát xuất từ mớ kỷ niệm của tôi với mảnh đất miền Nam, từ vùng Đồng Nai đến xuống tút mút tận mũi Cà Mau! Tiếng sóng nơi câu: “Chiều êm sóng vỗ bồi hồi bờ nuớc xa” là tiếng sóng tôi từng nghe từ con sông Đồng Nai cho đến con sông Hàm Luông với không biết bao nhiêu là nhánh sông khác, chằng chịt trên dải đất miền Nam! Như đã từng đề cập đến nhiều phen ở mục “Nhạc” này trên Cỏ Thơm: Tôi hiếm khi viết bài hát từ hư cấu!

Thanh Trang (Nam Cali, cuối Thu 2010)



Mời thưởng-thức Ngày Em Về, Kim Tuyết trình bày, xin bấm vào:



Anh Tú
November 4, 2015

Trích từ:

Wednesday, January 26, 2022

LAO XAO NỖI NHỚ
Vũ Minh Tâm

Đã đăng tại:

https://anhtuvaban.blogspot.com/search/label/Vu%CC%83%20Minh%20T%C3%A2m 

 

Hồi ức 1
Tác giả


TÌM VỀ KỶ NIỆM:

THỜI TIỂU HỌC

Từ những ngày mới bắt đầu đi học, tôi đã được ba dắt vào trường và xin cho tôi được vào lớp Năm tức là lớp Một bây giờ.
Trường tiểu học lớn nhất trong quận này có đầy đủ cấp lớp từ lớp Năm tới lớp Nhất chứ không như trường làng ba tôi dạy chỉ có tới lớp Ba. Thầy Phan Thông Hỷ lúc đó là hiệu trưởng, đa số Thầy Cô đều từ Cần Thơ qua dạy, cũng có nhiều Thầy Cô nhà tại địa phương.
Năm đó tôi vừa đủ sáu tuổi theo giấy khai sinh nhưng thật ra tôi đã bảy tuổi rồi, do tôi sinh gần cuối năm nên ba làm khai sanh nhỏ lại một tuổi để tôi đủ sức đi học cùng các bạn ở một ngôi trường nằm trong chợ và có tầm cỡ trong quận.
Suốt những năm ở cấp tiểu học tôi đã trải qua tuổi thơ với nhiều vui buồn, với nhiều thăng trầm của cuộc sống ảnh hưởng rất lớn cuộc đời tôi.
Năm lớp Năm tôi được học Thầy Tuôi, Thấy Lê Văn Tuôi, Thầy Cô trong trường hay gọi là Thầy Chín Tuôi. Nhà Thấy bên Cần Thơ hằng ngày đạp xe qua dạy. Năm sau lên lớp Tư tôi được học một Thầy nữa là Thầy Ngô Văn Hai, hay được gọi là Thầy Hai Bụng. Hai người Thầy của tôi đều lớn tuổi, Thầy Hai tóc bạc phơ, cả hai Thầy đều mất vì bệnh. Thầy Hai mất trong mùa hè khi tôi hết lớp Tư, còn Thầy Chín thì cũng mất nhưng không nhớ năm nào. Qua Năm lớp Ba tôi được học cô Dung, cô Lâm Kim Dung, cô có dáng đẹp mảnh mai, da trắng nhưng cô có một ngón tay bị co lại nên bọn học trò thường gọi lén là cô Dung Cùi. Lên lớp Nhì tôi học cô giáo Ảnh, cô tên Đồng Ngọc Ảnh, nổi tiếng là dạy giỏi và cũng nổi tiếng nghiêm khắc, đánh đòn học trò rất dữ. Tôi nghe cũng sợ nhưng cứ tự tin, mình học tốt và ngoan thì sẽ không bị đòn. Thật vậy, suốt năm học với cô tôi không hề bị roi nào hay bị phạt vì không thuộc bài.
Hết bốn năm học êm ái trôi qua nhanh chóng. Khi tôi sắp sửa bước sang năm lớp Nhất là năm cuối cấp quan trọng thì một biến cố đến với gia đình, ba tôi đột ngột qua đời bỏ lại ông bà nội già và mẹ tôi cùng đàn con sáu đứa mà tôi là chị cả. Nỗi lo tan tác không biết còn được đi học nữa hay không vì ông nội tôi do buồn rầu mất đi người con duy nhất ông cũng qua đời sau ba tôi đúng 70 ngày. Má tôi nén đau thương quyết chí chịu cực khổ cho chị em tôi được tiếp tục đi học vì ba tôi là thầy giáo làng hay nói hồi xưa ở quê học ít nên giờ làm gì cũng cho con cái ăn học tới nơi tới chốn.
Năm học lớp Nhất tôi học cô Ánh, tên cô là Huỳnh Kim Ánh, tôi cố gắng hết sức để thi vào lớp Đệ Thất đầu cấp Trung học, hồi đó thi rất khó, có thi là có đậu có rớt. Tỉ lệ năm tôi thì là một chọi ba, vừa lo học thi vừa buồn nhớ ba vô cùng. May mắn năm đó tôi thi đậu vào lớp Đệ Thất, có 150 học sinh đậu chính thức gồm 2 lớp Anh Văn, A1 toàn con trai và A2 toàn con gái và 1 lớp Pháp Văn. Tôi đậu hạng 57 không cao nhưng đậu là mừng lắm rồi. Sau đó nhà trường quyết định mở thêm một lớp Pháp Văn nữa nên có hai lớp Pháp Văn P1 và P2.
Tôi chính thức bước vào Trung học, điều mà những ai được đi học vẫn hằng mong ước và hãnh diện, nó quan trọng như bây giờ được vào đại học vậy. Những đứa học chung thời tiểu học có đứa cũng tiếp tục học trên trung học, tới nay vẫn còn nhớ tên và vẫn còn liên hệ. Nhiều kỷ niệm cũng rất khó quên.
Suốt những năm học tiểu học tôi vẫn còn nhớ nhiều Thầy Cô và bạn bè. Nhớ như in cái cổng trường, cổng trước và cổng sau, đường đi tắt phía sau nhà chú Tư Dưỡng chuyên đánh trống và làm bảo vệ. Nhớ Dì Năm bán nước đá bào xi rô, nhớ hai má con Dì Hoa bán bánh mì ngoài cổng sau mà tôi chỉ ăn bánh mì chan nước cho ít tiền hơn ăn bánh mì thịt. Để dành tiền mua thiệp chúc xuân, mua bài ca vọng cổ... Ấy vậy mà có lần do sơ ý lúc xếp hàng vào lớp tôi đụng phải một bạn làm rơi ổ bánh mì mà bạn cầm trên tay, tôi phải đền cho bạn ấy và bạn chỉ lấy phân nửa số tiền mua ổ bánh mì thịt. Lâu lắm không gặp bạn chắc bạn ấy không nhớ đâu. Nhưng hôm rồi hay tin bạn đã ra đi vì nhiễm phải con virut quái ác trong đại dịch năm nay, thật là buồn!
Tôi bước vào ngưỡng cửa Trung học với chiếc áo dài xúng xính được người quen tặng vải và người mợ may dùm, chỉ bằng vải ka tê trắng thôi mà đã là hàng đẹp để may áo dài thời đó. Cái áo dài theo tôi suốt 12 năm học với bao niềm yêu mến.
Trường Trung học Bình Minh được chính thức thành lập từ năm 1962 và học ghép với trường tiểu học cũng do Thầy Phan Thông Hỷ làm hiệu trưởng, lúc đó Thầy có chức danh là Thanh tra kiêm Hiệu Trưởng, đối với giáo viên và học sinh là một chức vụ rất oai. Đối với dân địa phương là một chức danh rất uy tín, và lđược kính trọng. Tới năm 1968 tôi vào học lớp Đệ Thất thì Thầy Phạm Hồng Thanh được chính thức bổ nhiệm làm hiệu trưởng, còn 4 lớp của chúng tôi học tạm trong khuôn viên trường tiểu học, các lớp anh chị thì học tại khu Tầm Tang đang xây thành trường Trung học Bình Mình sau này.

Lê Kim Tuyết.

Tuesday, January 25, 2022

NHỚ MỘT CHIỀU XUÂN
Sáng tác của Nguyễn Văn Đông
Trình bày: Lê Kim Tuyết

Saturday, January 22, 2022

LỜI TẠ TÌNH


"...Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản..."
Thôi Hiệu
"...Hạc vàng một lần bay qua rồi đi mãi..."
Muôn ngàn lần tạ ơn những bóng hạc đã bay ngang qua đời tôi.

Xin cho đóng gói nỗi buồn
Gửi gió mây,gửi suối nguồn ban mai !
Xin tạ ơn những dặm đời
Với ăn năn,với ngậm ngùi trăm năm !
Đã đau từ nguyệt trước rằm
Đã xanh xao tự màu trăng cuối ngàn !
Ngủ yên thôi
ngủ yên thôi
hỡi thời gian !
Xin vẫy tay
xin vẫy tay
cánh hạc vàng
thiên thu...

Nguyễn Toàn
(16/7/2020)

Thursday, January 20, 2022

Tuesday, January 18, 2022

 

Danh sách các Thầy Cô đã dạy trường Bình Minh 

1976-1981

 

Do Cô Kiều Trinh và ThyTrang lục lạo trong ký ức, mong cả nhà BM mình ai nhớ thì bổ sung thêm nhen🥰🥰🥰

Môn Văn

-Thầy Hà Ngọc Dương( Cần Thơ)

-Thầy Nguyễn Toàn ( Đà Nẳng)

-Cô Nguyễn Hồng Hoa

-Cô Nguyễn thi Say( gv chi viện từ Miền Bắc)

-Thầy văn Dung( gv chi viện)

-Thầy Nguyễn khắc Sảo ( vừa dạy vừa đi bán bánh mì nên yên sau luôn có cái bội !!! Thương não lòng, rất lạc quan , phụ trách văn nghệ cho Trường rất nhiệt tình )

-Thầy Phạm Hồng Quan (?)

Môn Sử 

-Cô Phạm Mỹ Hoa(?)

-Thầy Nguyễn Tấn Sự ( Sài Gòn )

-Cô Nguyễn thị Kiều Trinh kiêm dạy Chính trị!(Vĩnh Long)

-Thầy Nguyễn Trước Lâm( Đồng Tháp)

Môn Địa

-Thầy Trần Ngọc Se( đã đi xa)

-Cô Lại thị Nhuần(?)

-Thầy Trần Dục Đức (Sài Gòn )

Môn Toán 

-Thầy Huỳnh Ngọc Đường (USA)

-Thầy Châu Thành Tài(USA)

-Võ Hữu Thể(?)

-Thầy…Dinh(?)

-Thầy Lê Hùng Phi ( luôn xách túi đệm)(?)

-Thầy Nguyễn Văn Cường( đã đi xa)

  Thầy từng nói con đường lộ cũ nếu đi xe đạp thì vẹo niềng, đi bộ         thì mất tướng

-Nguyễn Văn Huệ <Đường Đề Thám , Cần Thơ> <cập nhật từ Nguyễn Văn Phép>

-Thầy Phạm Kiêm Thành<Sài Gòn> < góp ý: N V Phép>

Môn Lý

-Thầy Phạm Phúc Mỹ (Long Hồ VL)

-Thầy Bùi Kim Bằng(USA)

-Thầy Nguyễn Ngọc Hạnh( gv chi viện )

-Cô Phùng thị Hồng Mỹ(?)

-Thầy Lê văn Lôi ( học tập về phải chạy xe lôi kiếm cơm sau mới được dạy lại vì quá thiếu Giáo viên , đã cùng Thầy Sảo Song kiếm hợp Bích về văn nghệ và giờ thì … chắc cũng đã gặp nhau )

-Thầy Nguyễn Văn Sẩu <Gò Vấp, qua đời>< dạy Toán Lý>

-

Môn Hoá

-Thầy Lê Văn Lượng ( Cần Thơ)

-Thầy Trần văn Sang ( Tân Quới)

-Cô Nguyễn kim Biên (gv tăng cường, là Hiệu trưởng)

Môn Sinh 

-Cô Trương Ngọc Nhung( USA)

-Cô Nguyễn Thu Thuỷ( Cần Thơ)

-Thầy Trần Hữu Phước ( Sài Gòn)

-Nguyễn Phương Ngọ <Nghệ An> < góp ý: Nguyễn văn Phép>

Môn Anh Văn

-Cô Nguyễn Ánh Nguyệt (Vợ thầy Nguyễn Trí Đức,USA)

-Cô Nguyễn Hồng Hoa ( Cần Thơ)

-Cô Trần Hoành Châu (Vĩnh Long)

Môn Pháp văn

-Thầy Bùi Mình Đức( Sài Gòn)

-Cô Nguyễn Thuý Phượng(Sài Gòn)

Môn Thể dục

-Cô Nguyễn thị Sáu ( Vĩnh Long)

-------

Phải kể đến công lao làm văn thư văn phòng của cô Tư Lý 

Phụ trách bếp ăn tập thể cho các Thầy Cô là chú Ba Nguyễn văn The là người tranh thủ từng nhánh củi , cọng rau cho bếp

 

GIẢI VĂN CHƯƠNG TOÀN 
TRƯỜNG TRUNG HỌC BÌNH MINH
1974-1975

Trung-học Bình Minh, niên-khóa 1974-1975, trường có tổ-chức Giải Văn Chương Toàn Trường gồm bộ môn Văn và Thơ cho đệ I cấp và đệ II cấp.

Tình-cờ ty Văn Hóa Giáo Dục Tỉnh Vĩnh Long đề ra cuộc thi Giai Phẩm Xuân năm Ất Mão 1975 cho tất cả các trường Trung Học trong tỉnh nhà, trường Trung Học Bình Minh có sẵn dồi dào bài vở tương đối và nhờ đó mà trường Trung học Bình Minh đã đoạt giải nhất.


 

Ảnh minh họa

MẸ và MÙA XUÂN.

 

Đêm đêm buông tiếng thở dài

Mẹ xa ngàn dặm ...tiếc hoài thâu canh

Đồng tiền mừng tuổi đỏ , xanh

Khoe quần áo mặc, phúc lành ngày xuân

Gia đình chúc tụng quây quần

Bữa ăn đoàn tụ phước phần cả năm

Trầu cau vườn cũ trăng thanh

Mùa xuân bên mẹ ... ngày xanh ngọt ngào

 

Bàng hoàng tỉnh giấc chiêm bao

Áo ai hoa trắng cài sao ngậm ngùi !

Lãng Uyển Châu
Vĩnh Long

Monday, January 17, 2022

 LỊCH SỬ TRƯỜNG TRUNG HỌC BÌNH MINH 

(VĨNH LONG)

Sự hình thành và phát triển:

Sự hình thành :

Trước năm 1962, ngày đất nước VN chưa thống nhất, quận Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long gồm có các xã: Mỹ Hoà , Đông Thành, Mỹ Thuận, Thành Lợi, Tân Quới, Tân Lược và thị trấn Cái Vồn. Quận lỵ Bình Minh đặt tại thị trấn Cái Vồn. Và điều đáng nói là quận Bình Minh chưa có trường Trung học.

Đa số người dân sinh sống với cánh đồng lúa, vườn cây ăn trái, liếp rau, cây cải, củ khoai lang, cây bắp. Một số hành nghề trầm lá lợp nhà, làm lu, khạp, kiệu đựng nước, làm nước mắm, nước tương, chao. Một xóm hành nghề làm tàu hủ ky, chài lưới đánh bắt cá trên sông Hậu. Phần lớn người dân có cuộc sống khó khăn, vất vả, một số ít người dân có cuộc sống tạm đủ ăn, đủ mặc .

Tôn giáo chính ở quận là:  Phật giáo, Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo.

Ở mỗi xã trong quận đều có trường Tiểu học . Học sinh học lớp Nhất (lớp 5) tốt nghiệp Tiểu học, muốn học lên lớp Đệ Thất (lớp 6) phải sang tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), dự kỳ thi tuyển vào lớp Đệ Thất trường Trung học Phan Thanh Giản hoặc trường Trung học Tống Phước Hiệp ở tỉnh Vĩnh Long. Cha mẹ học sinh phải lo chỗ ở, chỗ ăn cho con em mình khi học xa nhà. Thật là khó khăn, vất vả cho dân nghèo. Trường Trung học Tư thục ở tỉnh Vĩnh Long, Phong Dinh tuyển sinh lớp Đệ Thất dễ hơn, nhưng tiền đóng học phí hàng tháng lại quá cao.

Người dân quê Bình Minh hằng mơ ước có ngôi trường Trung học công lập tại quận để con em được tiếp tục học lên bậc trung học.

Cảm thông được nỗi khổ và niềm mơ ước của người dân nghèo. Và với tâm huyết nâng cao dân trí cho người dân bản địa, Thầy Phan Thông Hỷ, Thanh tra Tiểu học quận Bình Minh đã làm việc với ông Quận Trưởng Bình Minh, ông Trưởng Ty Tiểu học tỉnh Vĩnh Long, ông Tỉnh Trưởng Vĩnh Long và ông Giám đốc Nha Trung học Sài Gòn xin phép mở trường Trung học công lập tại quận Bình Minh. Sau thời gian chờ đợi, cuối cùng Thầy Phan Thông Hỷ nhận được công văn của Nha Trung học Sài Gòn chấp thuận cho thành lập trường Trung học  công lập tại quận Bình Minh. Với yêu cầu sau 5 năm mở lớp Đệ Thất đầu tiên , quận phải có đất xây dựng trường Trung học riêng biệt. Và cho phép đặt tên trường là Trường Trung học Bình Minh, nằm trong hệ thống trường Trung học quốc gia. Nha Trung học quản lý và sẽ bổ nhiệm giáo viên cho trường. Thầy vui mừng tột độ.

Lúc bấy giờ công việc của Thầy thật đa đoan . Bởi lẽ Thầy vừa là Thanh tra Tiểu học, vừa là Hiệu trưởng trường Tiểu học Bình Minh, bây giờ kiêm thêm chức vụ Hiệu trưởng trường Trung học. Thầy phác thảo ngay kế hoạch tuyển sinh và mở lớp. Thầy lập văn bản trình ngay cho Quận Trưởng Bình Minh, Trưởng Ty Giáo dục, Tỉnh Trưởng Vĩnh Long về việc tổ chức ngay kỳ thi tuyển vào lớp Đệ Thất năm 1962. 

Văn phòng trường Trung học Bình Minh làm việc chung với văn phòng Thanh tra Tiểu học gồm : Thầy Phan Thông Hỷ, Hiệu trưởng và Thầy Nguyễn Văn Trứ làm Thư ký kiêm Kế toán.

Về cơ sở vật chất của trường Trung học Bình Minh là mượn tạm phòng học của trường Tiểu học Bình Minh.

Sự Phát triển:

-Năm học 1962-1963: là năm học đầu tiên của Trường Trung học Bình Minh. Trường tổ chức thi tuyển vào 01 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 50 học sinh. Học sinh nam nữ học chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn. Thầy Hiệu trưởng : Phan Thông Hỷ.

-Năm học 1963-1964: Trường tổ chức thi tuyển vào 01 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 50 học sinh. Học sinh nam nữ học chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn. Thầy Hiệu trưởng : Phan Thông Hỷ.

-Năm học 1964-1965: Trường tổ chức thi tuyển vào 01 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 50 học sinh. Học sinh nam nữ học chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn. Thầy Hiệu trưởng : Phan Thông Hỷ.

-Năm học 1965-1966: Trường tổ chức thi tuyển vào 02 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 100 học sinh. Học sinh nam nữ học riêng ( 01 lớp Đệ Thất P1 dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất P2 dành cho nữ) . Sinh ngữ chính là Pháp Văn. Thầy Hiệu trưởng : Phạm Hồng Thanh.

-Năm học 1966-1967: Trường tổ chức thi tuyển vào 03 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 150 học sinh. Có 02 lớp Đệ Thất học Pháp văn (01 lớp Đệ Thất P1 dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất P2 dành cho nữ ) và 01 lớp Đệ Thất học Anh văn  dành cho nam nữ chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn, Anh văn . Đây là năm đầu tiên trường Trung học Bình Minh có lớp Đệ Thất học Anh văn. Thầy Hiệu trưởng : Phạm Hồng Thanh kiêm Giáo sư dạy Anh văn cho lớp Đệ Thất này. Cũng trong năm học này, Quận Trưởng Bình Minh bàn giao khu đất nhà Tầm (gần Chùa Cô Ba)  cho Hiệu trưởng trường Trung học Bình Minh xây dựng trường.

-Năm học 1967-1968: Trường tổ chức thi tuyển vào 03 lớp Đệ Thất. Có hàng trăm học sinh (HS) dự thi (HS trong quận lẫn HS nơi khác đến) Tuyển 150 học sinh. Có 02 lớp Đệ Thất học Pháp văn (01 lớp Đệ Thất P1 dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất P2 dành cho nữ ) và 01 lớp Đệ Thất học Anh văn  dành cho nam nữ chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn, Anh văn . Cô Hoàng Thị Vấn, giáo sư Anh văn, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn được Nha Trung học Sài Gòn bổ nhiệm về trường. Thầy Hiệu trưởng : Phạm Hồng Thanh. 

Trong năm học 1967-1968 này, một số lớp của trường Trung học học nhờ trường Tiểu học được dời ra khu nhà tầm (khu nhà tầm này hoạt động không hiệu quả nên đóng cửa). Từ đây mới có tên gọi trường nhà tầm, trường tầm tang. Trường cho lắp ao ở cuối dãy nhà ngang bên trái (từ cổng trường ở lộ cũ nhìn vào) để xây thêm 01 phòng học và lớp Đệ Tam đầu tiên của trường học ở phòng này.

-Năm học 1968-1969: Trường tổ chức thi tuyển vào 04 lớp Đệ Thất. Tuyển 200 học sinh. Có 02 lớp Đệ Thất học Anh văn (01 lớp Đệ Thất A1 dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất A2 dành cho nữ ) và 02 lớp Đệ Thất học Pháp văn:  nam nữ chung. Sinh ngữ chính là Pháp Văn, Anh văn . Thầy Hiệu trưởng : Phạm Hồng Thanh. Trong năm học 1968-1969 này, trường Trung học Bình Minh đầu tiên mở lớp Đệ Tam thuộc hệ Trung học Đệ nhị cấp. Trong hệ thống trường Trung học thời bấy giờ có 2 cấp : 1-Trung học Đệ nhất cấp gồm từ lớp Đệ Thất (lớp 6) đến lớp Đệ Tứ (lớp 9). 2-Trung học Đệ nhị cấp gồm từ lớp Đệ Tam (lớp 10) đến lớp Đệ Nhất (lớp 12), và học theo ban mà HS tự chon: Ban A (Vạn vật), Ban B (Toán), Ban C (Văn chương), Ban D (Ngoại ngữ, Cổ ngữ).

-Năm học 1969-1970: Trường tổ chức thi tuyển vào 07 lớp Đệ Thất. Gồm có 05 lớp Đệ Thất học Anh văn và 02 lớp Đệ Thất học Pháp văn.

( 02 lớp Đệ Thất Pháp văn nam nữ chung. 03 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nam, 02 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nữ ).Thầy Hiệu trưởng : Nguyễn Văn Khoa 

Trong năm học này có điều đặc biệt : lúc đầu khai giảng chỉ có 04 lớp Đệ Thất ( 01 lớp Đệ Thất học Pháp văn nam nữ chung, 02 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nữ). Sau khai giảng khoảng 01 tháng , nhà trường thông báo tuyển thêm gọi là “Đậu vớt”,  01 lớp Đệ Thất học Pháp văn và 02 lớp Đệ Thất học Anh văn (01 lớp Đệ Thất học Pháp văn nam nữ chung, 01 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nam, 01 lớp Đệ Thất Anh văn dành cho nữ).Năm cuối cùng được gọi là lớp Đệ Thất. 

-Năm học 1970-1971: Trường tổ chức thi tuyển vào 09 lớp 6. Gồm có 07 lớp 6 học Anh văn và 02 lớp 6 học Pháp văn. Năm học này lớp Đệ Thất được gọi là lớp 6. Thầy Hiệu trưởng : Nguyễn Văn Khoa 

-Năm học 1971-1972: Trường tổ chức thi tuyển vào 10 lớp 6. Gồm có 07 lớp 6 học Anh văn và 03 lớp 6 học Pháp văn. Thầy Hiệu trưởng : Nguyễn Văn Khoa 

Trong năm học 1971-1972 này, trường Trung học Bình Minh có 01 lớp 12 đầu tiên. Lớp có 13 học sinh gồm có 12 nữ và 01 nam.

(Người viết phần này là : Nguyễn Thành Kiếm, giấy khai sinh năm 1951, vào học lớp Đệ Thất năm học 1964-1965. Số danh bộ : 32/64. (Năm thứ ba của trường).

Năm học 1968-1969 là Tổng Thư ký, Đại diện học sinh trường Trung học Bình Minh . Năm 1969 mình rời trường Trung học Bình Minh.

Rất mong các bạn đồng môn góp ý, bổ sung. Mình nhớ có bao nhiêu đó thôi. Nếu có điều nào sai sót mong các bạn thông cảm bỏ qua và xin các bạn bổ sung , cập nhật cho hoàn thiện.)


Thầy , Cô làm Hiệu trưởng trường Trung học Bình Minh qua từng năm học :

1962-1965: Thầy Phan Thông Hỷ. 

Thầy Phan Thông Hỷ mất năm 1969 tại tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ).

1965-1969: Thầy Phạm Hồng Thanh

1969-1973: Thầy Nguyễn Văn Khoa

1973-1975: Thầy Nguyễn Hồng Ẩn

1975-1976: Thầy Nguyễn Minh Tuấn. Ngày 30-4-1975 đất                                      nước VN thống nhất.

1976-1978: Cô Nguyễn Thị Biên  (Giáo viên Miền Bắc chi                                    viện vào Miền Nam quản lý trường)

1978-1979: Không có Hiệu trưởng chỉ có 3 Phó Hiệu                                              trưởng:

                  -Thầy Nguyễn Trước Lâm

                  -Thầy Huỳnh Ngọc Đường

                  -Cô Nguyễn Thị Kiều Trinh

        1979-1989: Thầy Trần Hữu Phước

1989-2006: Thầy Lê Kim Sáu

2006-2017: Thầy Đỗ Thành Thuỵ

2017-2019: Thầy Lê Văn Tường

2019-nay là 2022: Thầy Đỗ Thành Thuỵ


(Mình nhờ các bạn điều chỉnh bổ sung nếu có sai sót. Chân thành cảm ơn )


Bảng thống kê số lớp học của trường Trung học Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long:

Năm học        Đệ Thất       Đệ Lục         Đệ Ngũ         Đệ Tứ        Đệ Tam         Đệ Nhị        Đệ Nhất

         Lớp 6       Lớp 7   Lớp 8        Lớp 9          Lớp 10         Lớp 11    Lớp 12

   

1962-1963     01  

1963-1964     01       01  

1964-1965    01               01           01  

1965-1966    02               01           01                   01             không  

1966-1967    03               02           01                   01             không  

1967-1968    03               03           02                   01             không  

1968-1969    04               03           03                   02                 01           không  

1969-1970    07               04            03                   03                 02           không  

1970-1971    09               07            04                   03                 03              02        không

1971-1972   10               09            07                   04                 03              02            01


(Mình nhờ các bạn vui lòng thống kê bổ sung tiếp)




Nguyến Thành Kiếm biên soạn.

Sunday, January 16, 2022

Cô Nguyễn Thị Kiều Trinh- Môn dạy:Sử

CẢM  "BAO GIỜ LẠI VỀ"

 

Về quê, anh nhớ lại BÌNH MINH

Tôi xa xứ cũng nhớ về phương ấy

Cùng nỗi nhớ ở hai đầu cách trở

Ta cảm thông nỗi lay lắc về thăm!

 

     BÌNH MINH trong tôi vẫn bao nẻo đường quen

     Từ Tân Lược đến Ba Càng tôi cùng em rong chơi khắp chốn

     Đi từ tấm lòng nên đôi chân không nhớ mỏi

     Đông Thành ơi, những cầu khỉ còn không!?

 

BÌNH MINH trong tôi cùng những sáng tinh khôi

Những nụ cười sao mà thương đến thế

Dù đôi chân em bám đầy bùn bụi

Vẫn rạng ngời ánh mắt rất BÌNH MINH!

 

       BÌNH MINH trong tôi những buổi tối cầu ao

      Vừa chuyện trò vừa nhai khoai lang luộc

       Chuyện thường ngày sao giờ tôi thèm quá

       Cây cầu ao không còn nữa, anh ơi!

 

BÌNH MINH trong tôi còn đọng tiếng còi

Của cô Sáu gọi mình dậy thể dục

Chú Ba The nấu bửa cơm tập thể

Trong mịt mù khói bếp củi không khô!

 

      BÌNH MINH trong tôi những phòng trọ rất vui

      Hành lang không dài sao mà hun hút

      Dáng ai đứng bên thềm chiều bảng lảng…

      Mình không giàu nhưng kẻ trộm thích ghé thăm!?

 

Trò dâu bể BÌNH MINH nay rạng rỡ

Nếu mình về bỡ ngỡ như chưa quen

Vẫn chốn xưa sao mình chừng lạc lối

Một chút ngày xưa. Giờ chỉ - ngày xưa!

 

      Ôi! Cách ngăn không tính bằng gì cả

      Những mất còn lắng đọng tiếp trong ta

      Ta vẫn là nhau khi cùng nỗi nhớ

      BÌNH MINH vẫn chờ ai nhớ về thăm

 

Ngậm ngùi tôi ngâm lại khúc ca dao

Nó vận mãi suốt hành trình tôi lưu lạc

"Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về phương ấy ruột đau chín chiều

Đường không cách trở bao nhiêu

Cò bay về được tôi về thì không" ./.


NGUYỄN THỊ KIỀU TRINH 

25/3/2012


LỜI GIỚI THIỆU CỦA THY TRANG

Cô Trinh đã HOẠ lại bài thơ BAO GIỜ LẠI VỀ của Thầy Nguyễn Toàn 

TÂM TƯ , TÂM TÌNH , TÂM SỰ đã dành hết cho BÌNH MINH 

Thương Cô nhiều lắm!

️🙂🙂🙂🙃🙃🙃🌹🌹🌹

Đọc BAO GIỜ LẠI VỀ tại:

https://trunghocbinhminhvinhlong.blogspot.com/2022/01/cuu-giao-su-nguyen-toan-bao-gio-lai-ve.html

Saturday, January 15, 2022

Gs Lê Văn Lôi


BÀI THƠ TÌNH U50

Năm mươi tuổi viết thơ tình
Để cho mình thấy được mình ngày xưa
Tìm về một thuở mộng mơ
Mười lăm tuổi tập làm thơ thất tình

Cũng buồn thơ thẩn một mình
Đêm đêm cũng khóc cho tình đơn phương
Bây giờ mỗi đứa một đường
Chuyện ngày xưa cứ vấn vương trong lòng

Và rồi em đi lấy chồng
Anh cưới vợ…(mà) vẫn chưa xong cuộc tình
Mấy mươi năm gặp lại một lần
Vẫn tìm được thoáng bâng khuâng thuở nào

Cuộc tình… cũng là giấc chiêm bao.

Lê Nhật Thanh


Xem thêm tại:

https://anhtuvaban.blogspot.com/2019/04/thu-tu-tu-mat-sang-trai-thay-le-van-loi.html

BLOG TRUNG HỌC BÌNH MINH, VĨNH LONG
CHÚC TẾT NHÂM DẦN



Cựu giáo sư Nguyễn Toàn, Môn dạy: Việt văn

   BAO GIỜ LẠI VỀ

Thương tặng Bạn bè và Học trò của một thời BÌNH MINH xưa ...     

 

Bao giờ tôi lại về thăm

BÌNH MINH quê hương một thời trai trẻ

Tháng năm qua vẫn đằm sâu nỗi nhớ

Kỷ niệm nào quá đổi yêu thương

      

     BÌNH MINH trong tôi là những nẻo đường quen

     Thành Lợi, Mỹ Hòa, Đông Thành, Tân Lược

     Tân Quới, Chợ Bà, Ba Càng, Trà Kiết

     Rạch Vồn ơi con nước chảy về đâu?

 

BÌNH MINH trong tôi là những sớm heo may

Con đường đến trường chông chênh đá sỏi

Đường không dài cho đôi chân mỏi

Chỉ đủ sâu thêm bao nỗi vui buồn!

 

      BÌNH MINH trong tôi là những tối trăng suông

      Chén chè khuya lòng đường ngọt tình bè bạn

      Vạt cỏ chân đê những chiều tắt nắng

       Ba bốn đứa xa quê quay quắt nẻo về!

 

BÌNH MINH trong tôi còn đọng tiếng kinh sầu

Tiếng kẻng cầm canh, tiếng heo kêu mỗi sáng

Con đường bờ sông cho chiều lãng đãng

Chút bâng khuâng xao sóng gợn chân cầu

 

     BÌNH MINH trong tôi căn gác trọ đìu hiu

     Buổi sáng, buổi chiều đi qua rất khẽ

     Bốn bức tường ngăn tâm hồn lộng gió

     Lệ nến hoen trang sách những đêm dài

 

Ba mươi năm bằng một cuộc bể dâu

Xui bước chân cũng ngỡ ngàng chốn cũ

Và những tình thân cũng thành viễn xứ

Chút yêu thương gió nội mây ngàn …

 

     Ôi! Cách ngăn đâu tính bằng thời gian

     Cũng không phải bằng bao nhiêu đường đất

      Mà tính bằng bao điều còn điều mất

      Khi tôi vẫn là tôi và em có là em?!

                                                  Có bao giờ tôi lại về thăm ?!


NGUYỄN TOÀN   

Hội An  2010-2012


LỜI NGỎ CỦA THY TRANG:

Thy Trang 

*Em ThyTrang, đàn em ra trường năm 1980 xin gửi đến blog hai bài thơ của Thầy Nguyễn Toàn và Cô Kiều Trinh

Với những tâm tình… với những địa danh để những ai đã từng sống, từng vui , từng dạy và từng học ở BÌNH MINH được gợi lại bao ký ức… 

Một cảm xúc tuyệt vời!!!          

Thầy Nguyễn Toàn đã dành tình cảm cho Bình Minh chúng ta nè 

LỜI CÁM ƠN CỦA BLOG TRUNG HỌC BÌNH MINH-VĨNH LONG:

Cám ơn Thy Trang tham gia Blog và đã gởi hai bài thơ rất đặc sắc và cảm động; đón đọc bài cảm tác của cô Kiều Trinh sẽ được đăng kỳ kế tiếp.

Cám ơn cả hai vị cựu giáo sư Nguyễn Toàn và Nguyễn Thị Kiều Trinh.

Friday, January 14, 2022



ĐÓN TẾT*


Cuối năm thời khắc chạy hơi nhanh

Việc nhỏ chưa xong  bỏ chẳng đành 

Làm cỏ hai hôm... tay lóng cóng 

Chùi lư ba tiếng … cẳng loanh quanh 

Lờ mờ mắt mũi, chim lìa cánh 

Ê ẩm gân xương, lá bỏ cành 

Dẫu vây thi nhân còn ngóng tết

Đời màu xanh, nắng vẫn vàng hanh 


Lãng Uyển Châu ( Vĩnh Long )


*Lời nhắn dễ thương từ tác giã: CHO EM GỬI BÀI THƠ VUI ĐÓN XUÂN và TẤM ẢNH em chụp năm ngoái cho TRANG  BÌNH MINH của chúng ta.

Thursday, January 13, 2022

 


SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TRƯỜNG TRUNG HỌC BÌNH MINH VĨNH LONG*

Sự thành lập trường:

Trước năm 1962, Quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long chưa có trường Trung học. Học sinh tốt nghiệp Tiểu học phải sang Cần Thơ (lúc bấy giờ là tỉnh Phong Dinh) để thi tuyển vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) của Trường Trung học Phan Thanh Giản hoặc phải lên tỉnh Vĩnh Long để thi tuyển vào lớp Đệ Thất của Trường Trung học Tống Phước Hiệp. 

Tạo thuận tiện cho phụ huynh lẫn học sinh tốt nghiệp Tiểu học của quận Bình Minh, Thầy Phan Thông Hỷ (Thanh tra Tiểu học quận Bình Minh) đã xin với Nha Trung học ở Sài Gòn cho phép mở trường Trung học tại quận nhà. Kế hoạch là mở một lớp Đệ Thất, mượn phòng của trường Tiểu học Cái Vồn, văn phòng thì chung với văn phòng Thanh tra của Thầy và sẽ mở rộng từ từ. Thầy dự kiến trường trung học Bình Minh có thể là Chi nhánh của trường Trung học Tống Phước Hiệp cũng được.

Nha Trung học ở Sài Gòn chấp nhận đơn xin mở trường của Thầy Phan Thông Hỷ với yêu cầu là sau 5 năm phải có đất để xây dựng trường và đặt tên trường là Trường Trung học Bình Minh, Vĩnh Long.

Kỳ thi tuyển một lớp Đệ thất đầu tiên thuộc niên khóa 1962-1963.

Niên khóa 1962-1963 Đệ thất đầu tiên này tuyển 50 học sinh trên tổng số hàng trăm học sinh dự thi. Sinh ngữ chính là Pháp văn.

Ban Giáo sư gồm: 

1. Thầy Phan Thông Hỷ Hiệu trưởng

2. Thầy Phan Trung Chánh

3. Thầy Nguyễn Quang Văn

4. Thầy Lương Vinh Xuân

5. Cô Nguyễn Thị Cậy

6. Thầy Nguyễn Xuân Cảnh

7. Cô Lâm Thị Kiều Tiên

8. Cô Nguyễn Thị Sáu

9. Thầy Nguyễn Bá Thảo

10. Cô Nguyễn Thị Thanh Huê

11. Thầy Nguyễn Văn Trứ Thư ký – Kế toán

Niên khóa 1963-1964: 

-Một Đệ thất

-Một Đệ Lục

Niên khóa 1964-1965 

-Một Đệ thất

-Một Đệ Lục

-Một Đệ ngũ

-Năm 1965, thầy Phan Thông Hỷ đã được Quận trưởng Bình Minh giao cho khu Tầm tang (nay là trường Trung học cơ sở Cái Vồn) để tu sửa lại làm trường Trung Học Bình Minh.

 Niên khóa 1965-1966:

-Có hai lớp Đệ thất-Sinh ngữ chính Pháp văn với 100 học sinh.

-Một Đệ Lục- Sinh ngữ chính Pháp Văn

-Một Đệ Ngũ-PV

-Một Đệ Tứ-PV

-Thầy Phạm Hồng Thanh được bổ nhiệm về làm Hiệu trưởng trường Trung học Bình Minh (thay thế thầy Phan Thông Hỷ).

Niên khóa 1966-1967 

-Có ba lớp Đệ thất với 150 học sinh. Hai lớp có sinh ngữ chính là Pháp văn và một lớp có sinh ngữ chính là Anh văn. 

-Hai lớp Đệ Lục-PV

-Một Đệ ngũ-PV

-Một Đệ Tứ-PV

-Học sinh lên lớp Đệ tam (lớp 10 bây giờ) được chuyển sang trường Trung học Phan Thanh Giản và trường Trung học Đoàn Thị Điểm thuộc tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) để học tiếp.

-Giữa niên khóa 1966-1967 trường Trung học Bình Minh được dời từ trường Tiểu học Cái Vồn ra khu Tầm tang. Thầy , Cô và Học sinh đã lắp mương, lắp ao để xây dựng thêm phòng học tại khu tầm tang này.

 Niên khóa 1967-1968 

-Ba lớp Đệ thất mới: 2 Đệ thất PV, một Đệ thất AV

-Ba lớp Đệ Lục: 2 PV, 1AV

-Hai Đệ ngũ PV

-Một đệ tứ PV

-Một Đệ tam PV

Sự mở thêm một lớp Đệ tam tại trường là dấu hiệu đầu tiên của trường chuyển sang đệ nhị cấp (là lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất tức lớp 10;11;12 bây giờ).

 Nk 1968-1969: Tiếp tục tuyển học sinh vào Đệ thất cộng thêm các lớp đã có.

-Ba lớp đệ thất mới

-Ba lớp Đệ Lục mới: 2 PV, một AV

-Ba lớp Đệ ngũ: 2 PV, 1AV

-Hai Đệ Tứ PV

-Một đệ tam PV

-Một Đệ nhị PV

-Niên khóa 1969-1970 

-Trung học Bình Minh tuyển sinh vào bảy lớp Đệ thất nữa với 350 học sinh trên tổng số cả nghìn học sinh dự thi. Hai lớp có sinh ngữ chính là Pháp văn và năm lớp có sinh ngữ chính là Anh văn. 

-Thầy Nguyễn Văn Khoa làm hiệu trưởng (thay thầy Phạm Hồng Thanh)

Niên khoá 1973– 1975: 

-Trường đã khá khang trang với phòng ốc mới xây dựng, có hàng rào xung quanh, cổng trường xinh đẹp. Có hằng trăm nhân sự cho Ban giám hiệu, ban giáo sư, ban giám thị và hàng ngàn học sinh các lớp, từ lớp 6 <đệ thất> đến lớp 12 <đệ nhất>

-Thầy Nguyễn Hồng Ẩn nhận chức Hiệu trưởng thay thầy Nguyễn Văn Khoa.

Tháng 4 năm 1975 đã khai tử tên trường Trung Học Bình Minh 

-Trường đã được thay tên khác.

-Sau đó 3 tháng với nhiệm vụ Trưởng Ban Điều Hành trong giai đoạn chuyển giao trường cho chánh quyền mới, thầy Nguyễn Hồng Ẩn rời trường.

-------

Sau đây là danh sách các Hiệu trưởng của trường đã đổi tên qua và niên khóa tiếp theo:

1975 – 1976: Nguyễn Minh Tuấn

1976 – 1978: Nguyễn Thị Biên

1978 – 1979: 

-Không có Hiệu trưởng

-Có 3 Hiệu phó lãnh đạo: Nguyễn Trước Lâm< Thường trực>, Nguyễn Thị Kiều Trinh, Huỳnh Ngọc Đường

1979 – 1989: Trần Hữu Phước

*Bài viết từ nhiều nguồn, có tính cách tham khảo, mong được nhiều đóng góp bổ túc, chỉnh sửa.

Sưu tầm